Trong tiến trình lịch sử, nhân dân xã Vi Hương luôn luôn đoàn kết chinh phục thiên nhiên, chống các loài thú dữ, cần cù lao động, giúp nhau phát triển kinh tế, xây dựng cộng đồng dân cư ngày càng phát triển. Nhân dân xã Vi Hương đã xây dựng được một nền văn hoá tinh thần với nhiều nét đặc trưng, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Vì vậy, văn hoá tinh thần của người dân nơi đây rất phong phú, ngôn ngữ của người Tày Vi Hương cũng giống như ngôn ngữ chung của người Tày Bạch Thông, Bắc Kạn, trong sáng, giản dị, dễ hiểu. Năm 1960 Đảng và Nhà nước đã giúp đồng bào Tày xây dựng hệ thống chữ Tày theo lối viết chữ quốc ngữ. Ngày nay người Tày ở Vi Hương vẫn sử dụng tiếng Tày trong giao tiếp hàng ngày. Đây vừa là bản sắc vừa là nét đẹp văn hoá truyền thống luôn được giữ gìn và phát huy.
Về văn học dân gian, trải qua quá trình lao động sản xuất và đấu tranh, nhân dân các dân tộc Vi Hương đã sáng tác và hát lượn những vần thơ ca trữ tình mượt mà, ấm áp. Nền văn hoá dân gian của người dân nơi đây khá đa dạng về thể loại như: Hát then, hát lượn, hát ví, phong slư… đã phản ánh mọi mặt sinh hoạt, tâm tư, nguyện vọng của người dân, ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên, thể hiện tình yêu quê hương đất nước, sự lạc quan, tinh thần chiến đấu chống thiên nhiên, chống tệ nạn xã hội, bất công và chống giặc ngoại xâm.
Văn hoá tín ngưỡng tâm linh của người dân xã Vi Hương mang đậm tính dân gian bản địa. Gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên được đặt ở nơi trang trọng. Người Tày quan niệm tổ tiên là cõi vô hình nhưng linh hồn không thể mất. Linh hồn các cụ quá cố vẫn lui tới bàn thờ chứng kiến những việc làm, lòng thành của con cháu, thể hiện trong các dịp lễ, tết, giỗ chạp hàng năm. Vì vậy đã từ lâu đời, tục thờ cúng tổ tiên luôn được duy trì và giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh, nhằm giáo dục con cháu tưởng nhớ đến công sinh thành, dưỡng dục, quá trình phát triển của dòng họ và mỗi gia đình. Trong các dịp lễ, tết mọi gia đình đều làm bánh cúng tổ tiên, vào dịp tết Nguyên đán có bánh chưng, bánh khảo, bánh bỏng… tết Mùng 3 tháng 3 có bánh chứng kiến, tết Mùng 5 tháng 5 làm bánh gio, tết rằm tháng Bảy có bánh gai…
Văn hoá tâm linh của người dân tộc Tày nơi đây còn được thể hiện rất rõ trong dịp “Tảo mộ” vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch hàng năm. Dù đi đâu, ở đâu, đến dịp này người dân đều hướng về quê hương, đến thắp hương, dâng lễ, tham gia tu bổ, sửa sang lại mộ phần của tổ tiên. Trẻ em cũng được theo cha mẹ hay ông bà đi tảo mộ, để con cháu nhớ về nguồn cội, kính trọng, biết ơn ông bà, tổ tiên.
Từ xa xưa, người dân Vi Hương đã sinh sống gắn bó với thiên nhiên, với thôn xóm, rừng núi, đồng ruộng… Cho đến ngày nay nhiều tập quán phong tục, lễ hội vẫn còn mang đậm nét truyền thống xưa kia. Đến dịp tết Nguyên đán là dịp các thôn bản đều được sửa sang quét dọn sạch sẽ ngay từ những ngày cuối tháng chạp của năm cũ. Khu vực xung quanh nhà được phát quang dọn sạch. Các vật dụng trong gia đình cũng được lau chùi, cọ rửa chu đáo và mua sắm thêm để đón năm mới. Những ngày này các gia đình thường gói bánh chưng, bánh gio, làm bánh khảo, bánh bỏng, có gia đình còn mổ lợn. Từ trẻ đến già, nam nữ thanh niên đều mặc áo mới đầu năm. Ngày 30 tết, mỗi gia đình thường dựng cây nêu trước nhà mình, đó là một cây tre hoặc mai, vầu còn giữ phần ngọn có lá và cao khoảng 4 đến 5 mét. Có nhà còn dán giấy đỏ, hoặc treo một số vật dụng vào phần ngọn cây nêu, thể hiện mong muốn, hy vọng cho gia chủ với một năm mới bình an, may mắn, xua đuổi ma quỷ và để những người đã khuất biết đường về ăn tết cùng con cháu.
Trong những ngày này đồng bào rất sôi nổi tham gia các hoạt động mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc như: tung còn, đánh quay, kéo co, chơi cờ, chọi gà… Đây là là dịp nhân dân các dân tộc bày tỏ tình thân ái đoàn kết, trai gái giao duyên tìm bạn, thể hiện nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Song song với việc giữ gìn, duy trì các phong tục tập quán truyền thống, người dân Vi Hương rất quan tâm đến sinh hoạt văn hoá lễ hội. Hàng năm nhân dân toàn xã thường tổ chức lễ hội “Lồng tồng” (xuống đồng), lễ hội này được tổ chức vào đầu xuân, trước đây được tổ chức vào ngày 18 tháng Giêng âm lịch, gần đây chuyển sang tổ chức vào ngày mùng 8 tháng Giêng âm lịch. Địa điểm được tổ chức hiện nay của hội Lồng tồng là khu Nà Lại thôn Đon Bây. Đây là lễ hội truyền thống của dân tộc Tày, về cơ bản nội dung và hình thức tổ chức ở các vùng miền đều giống nhau.
Mục đích cơ bản của lễ hội “Lồng tồng” là mong ước cầu cho một năm mới mưa thuận, gió hoà, mùa màng bội thu, bản làng bình yên, mọi người khoẻ mạnh. Lễ hội cũng là dịp để mọi người cùng nhau vui chơi, tham gia văn hoá, văn nghệ… thể hiện tinh thần đoàn kết cộng đồng. Mọi người đều nhiệt tình tham gia lễ hội với niềm mong ước cho một năm cũ qua đi và mở ra một năm mới no ấm, sung túc hơn. Trước ngày lễ hội, các gia đình đều quét dọn nhà cửa, xóm làng sạch sẽ, chuẩn bị đồ ăn, thức uống để đón khách.
Vào ngày hội “Lồng tồng”, Lễ hội diễn ra có hai phần: Phần Lễ và phần Hội.
Để dâng lễ vật, các gia đình (hoặc các bản) đều có mâm cỗ bày lễ vật theo khả năng, mang hàm ý phô bày sự khéo léo của người phụ nữ trong việc nội trợ, nấu nướng các món ăn truyền thống như: Bánh khảo, bánh chưng, bánh dày, chè lam, bánh bỏng, bánh hoa… lễ vật không thể thiếu là gà thiến luộc, thịt lợn quay, xôi, bánh chưng, bánh khảo.
Lễ khấn, do các thầy tào chủ trì, mở đầu là không khí trang nghiêm khi người chủ lễ đọc bài khấn cám ơn các vị thần phù hộ nhân dân làm ăn no đủ, cầu cho vụ tới mưa thuận, gió hoà, mùa màng bội thu hơn nữa.
Sau phần lễ là phần hội với không khí vui nhộn náo nức, trong tiếng hát then hoà cùng tiếng đàn tính. Các trò chơi truyền thống đặc sắc được tổ chức như: Múa sư tử, múa võ, chơi cờ, đánh vật, đánh yến, đi cà kheo. Đặc biệt nhất là trò chơi tung còn, đây là trò chơi đặc sắc nhất trong các trò chơi dân gian.
Để chuẩn bị cho hội tung còn, người dân dựng một cây mai cao từ 15 đến 20 mét dựng trên một đám ruộng bằng phẳng, rộng nhất. Trên đỉnh cột có uốn một vòng tròn, đường kính từ 50 đến 60 cm. Dán giấy hai bên (đề chữ nhật – nguyệt, tượng trưng cho mặt trời và mặt trăng) hoặc dán một vòng tròn đồng tâm bằng giấy màu khác làm tâm điểm. Quả còn được các cô thiếu nữ khâu, quả còn hình vuông hay chữ nhật, bên trong đựng hạt bông, hay hạt thóc, hoặc hạt đậu xanh (nói chung phải là hạt giống). Quả còn được đính các dây có tua ngũ sắc dài từ 1m hoặc hơn.
Yêu cầu của trò chơi ném còn là phải tung còn vào trúng hồng tâm, phải làm thủng vòng tròn trên cây cột. Nếu có người tung trúng và làm thủng hồng tâm, thì theo quan niệm của người dân là năm đó làm ăn mới thuận lợi, mưa gió thuận hoà. Nếu cả cuộc chơi không ai ném trúng vòng tròn thì dân không vui, buộc ông thầy tào phải làm phép đục thủng vòng tâm mới được.
Như vậy tung còn đòi hỏi cả sức khoẻ và sự khéo léo, tài nghệ. Trong trò chơi này nam nữ thanh niên đứng đối diện tung còn cho nhau, thi thố, không khí náo nhiệt, vui nhộn.
Đây là một trò chơi mang tính phồn thực rất đặc sắc, thể hiện sự kết hợp âm dương để tạo ra nòi giống kể cả người và vạn vật sinh sôi phát triển.
Bên cạnh các trò chơi đó thanh niên nam nữ còn tổ chức biểu diễn văn nghệ với các tiết mục đặc sắc như: hát then, hát lượn và các bài hát của các làn điệu dân ca mọi miền đất nước.
Ai từng dự hội “Lồng tồng” sẽ không thể quên được không khí lễ hội say lòng người, cảnh sắc phong phú đẹp mắt, hoà quện trong tình thân ái, đoàn kết, yêu thương. Những ấn tượng sâu sắc ấy sẽ được lưu giữ mãi.
Truyền thống yêu nước chống ngoại xâm: Nhân dân xã Vi Hương cũng như nhân dân các dân tộc mọi vùng miền khác của huyện Bạch Thông ngay từ những năm đầu công nguyên đã tham gia cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng chống lại ách độ hộ của nhà Hán. Qua 10 thế kỷ đấu tranh chống bọn phong kiến phương Bắc đã làm cho ý thức độc lập, tự chủ càng được nêu cao và sự đoàn kết thống nhất, gắn bó giữa các cộng đồng dân cư và các tộc người càng được tăng cường.
Từ thế kỷ thứ 11 trở đi, nhân dân các dân tộc đã ra sức bảo vệ nền độc lập, kiên quyết đánh bại các cuộc chiến tranh xâm lược của ngoại bang. Trong sử sách còn ghi rõ, để chống lại sự xâm lược của nhà Tống, Lý Thường Kiệt đã huy động 5.000 người là con em các dân tộc thiểu số phía bắc, lập thành đạo quân để chống lại giặc Tống xâm lược, trong đó có con em người Bạch Thông và Vi Hương.
Sang triều đại nhà Trần, nhân dân ta đã ba lần chống lại sự xâm lược của nhà Nguyên, vùng Việt Bắc nói chung và Bắc Kạn nói riêng, là nơi xảy ra nhiều cuộc đụng độ giữa nhân dân ta và quân giặc cướp nước.
Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh, nhân dân Bắc Kạn, Thái Nguyên trong đó có nhân dân Vi Hương đã tiến hành nhiều cuộc nổi dậy dưới sự chỉ huy của Trần Nguyên Khang, Nguyễn Đa Bí, Chu Sư Nhan, Bùi Quý Thắng… Đặc biệt là đội quân “áo đỏ”, là đôi quân đã được nhân dân các dân tộc miền núi che chở, giúp đỡ, nên đã tiến hành cuộc chiến đấu lâu dài tới 17 năm, gây cho địch nhiều tổn thất.
Sau khi đánh đuổi được giặc Minh, đất nước trở lại độc lập và thịnh vượng dưới triều đại nhà Lê.
Đến cuối triều Lê, vào giữa thế kỷ 16 đất nước ta lại rơi vào cuộc nội chiến giữa tập đoàn phong kiến nhà Mạc (Bắc Triều) và họ Trịnh (Nam Triều). Quân đội nhà Mạc đã dựa vào vùng rừng núi Bắc Kạn, Cao Bằng để chống lại nhà Trịnh. Vi Hương lúc này là nơi đã xảy ra nhiều trận đánh huyết chiến giữa hai thế lực Mạc – Trịnh. Cuộc chiến của hai tập đoàn phong kiến này đã làm cho người dân phải chịu bao thống khổ. Nhưng cũng qua đó nhân dân càng nhận thức rõ hơn, đâu là tập đoàn phong kiến phản động, đâu là tập đoàn phong kiến đại diện cho nhân dân. Chính vì vậy sau này khi Nùng Văn Vân phất cờ khởi nghĩa (1833 – 1835) chống lại chế độ phong kiến nhà Nguyễn hủ bại, nhân dân Bạch Thông nói chung và nhân dân Vi Hương nói riêng đã tích cực ủng hộ, họ đã cho con em mình tham gia nghĩa quân, làm cho vua quan nhà Nguyễn vô cùng hoảng sợ.
Cũng trong thời kỳ này, trước sự suy vong của triều đình phong kiến nhà Nguyễn, các toán quân Thanh tràn qua biên giới, thâm nhập Việt Nam, chiếm đóng nhiều vùng ở Việt Bắc. Nhân dân Vi Hương cùng với nhân dân các vùng quê xung quanh đã tích cực tổ chức và đấu tranh kiên cường chống các toán quân “cờ trắng”, “cờ vàng” của quân Thanh để bảo vệ Tổ quốc và bảo tồn sự sống của mình.
Với truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất và sinh hoạt văn hoá, nhân dân các dân tộc Vi Hương từ bao đời nay đã đoàn kết, tương thân, tương ái, đùm bọc và đấu tranh để bảo tồn và giữ gìn bản sắc văn hoá và bảo vệ quê hương, phát huy những giá trị quý báu trong truyền thống dựng nước và giữ nước nơi đây. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) của Đảng về “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, Đảng bộ và nhân dân Vi Hương đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt nội dung Nghị quyết đến toàn thể cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; chỉ đạo triển khai công tác xây dựng và bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, các phong tục, tập quán văn hoá vật thể, văn hoá phi vật thể nhằm giáo dục truyền thống văn hoá dân tộc, giáo dục lòng yêu nước, ý thức tự lực, tự cường, đoàn kết tương trợ lẫn nhau trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội Vi Hương ngày càng giàu mạnh.